Xử phạt nhà báo theo dự thảo pháp lệnh: Cần cân nhắc!

Âm nhạc
Rate this post

Ngày 15/8, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến ​​về dự thảo Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động hợp pháp.

Theo dự thảo này, những nhà báo có hành vi cản trở hoạt động tố tụng sẽ bị xử lý nghiêm. Mặc dù việc ban hành các chế tài xử phạt là cần thiết, nhưng một số hành vi bị xử phạt nêu trong dự thảo vẫn cần được xem xét lại.

Xử phạt nhà báo theo dự thảo pháp lệnh: Cần cân nhắc!  ảnh 1

Phóng viên tác nghiệp tại một phiên tòa thuộc Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: HOÀNG GIANG

Không phù hợp với luật pháp

Điểm l Khoản 2 Điều 23 của dự thảo quy định: Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1 triệu đồng đối với nhà báo không chấp hành yêu cầu của Tòa án xuất trình thẻ nhà báo và giấy giới thiệu tác nghiệp khi tham gia phiên tòa để đưa tin về tiến trình của phiên tòa.

Như vậy, theo quy định này, khi tham gia phiên tòa, nhà báo bắt buộc phải có cả hai loại giấy tờ là thẻ nhà báo và giấy giới thiệu tác nghiệp. Nếu thiếu một trong hai loại giấy tờ trên sẽ bị xử phạt hành chính.

Tuy nhiên, quy định này không tương thích với Luật Báo chí, bởi theo Điều 25 Luật Báo chí, khi tác nghiệp, nhà báo chỉ cần xuất trình thẻ báo chí. Đối với hoạt động báo chí tại các phiên tòa công khai, nhà báo chỉ cần xuất trình thẻ nhà báo sẽ được bố trí khu vực riêng để tác nghiệp …

Luật Báo chí không quy định bất kỳ loại giấy tờ nào khác mà nhà báo phải có ngoài thẻ báo chí. Vì vậy, Pháp lệnh quy định việc xử phạt nhà báo không có “giấy giới thiệu tác nghiệp” là làm nảy sinh thêm một loại “giấy phép con”.

Ở một mức độ nào đó, quy định xử phạt nêu trên cũng đã hạn chế quyền tác nghiệp của nhà báo trong việc phản ánh trung thực, kịp thời tình hình văn hóa, kinh tế, xã hội của đất nước và thế giới. Cần lưu ý rằng trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, Luật Báo chí là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất điều chỉnh hoạt động báo chí. Vì vậy, các pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội không được mâu thuẫn, phủ định các quy định trong Luật Báo chí.

“Cần có một cơ chế rõ ràng để các nhà báo làm việc tại tòa án”

Theo tôi, dự thảo cần có quy định rõ ràng về hoạt động của báo chí tại tòa án công. Cụ thể, trường hợp nhà báo đã xuất trình đầy đủ giấy tờ với thư ký phiên tòa nhưng chủ tọa phiên tòa vẫn từ chối cho phép ghi âm, ghi hình.

Xử phạt nhà báo theo dự thảo pháp lệnh: Cần cân nhắc!  ảnh 2

Nhà báo Tuyết Mai, báo Tuổi Trẻ. Ảnh: NVCC

Các nhà báo khi tác nghiệp buộc phải thu thập tài liệu. Những tài liệu này không được sử dụng để đăng trên báo chí mà là tài liệu, chứng cứ, nhưng nếu quy định như dự thảo sẽ gây bất lợi cho công việc của nhà báo trước tòa.

Ví dụ, khi các nhà báo ghi lại các sự kiện trong một phiên tòa công khai. Hầu hết các loại tài liệu này không có trong thông cáo báo chí. Tuy nhiên, các nhà báo sẽ lấy đó làm bằng chứng hoặc nghe lại đoạn băng ghi âm để cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác hơn về nội dung phiên tòa.

Tuy nhiên, nếu đối chiếu với quy định trong dự thảo thì việc ghi âm trên là vi phạm, có thể bị xử phạt với mức rất cao và bị tịch thu phương tiện.

Nhà báo KHOA HỌC BUỔI SÁNGBáo tuổi trẻ

(TỔNG HỢP TỐI THIỂU) ghi)

Chỉ xử phạt hành vi tự ghi âm và ghi hình trong phiên điều trần kín

Ngoài việc xử phạt khi xuất trình giấy tờ không đúng quy định, khoản 4 Điều 23 của dự thảo còn quy định nhà báo ghi âm, ghi hình hội đồng xét xử mà không được sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa sẽ bị phạt tiền 7-15. triệu đồng.

Tuy nhiên, quy định này cần được xem xét trong mối quan hệ với các quy định khác của Luật Báo chí và các văn bản pháp luật có liên quan.

Theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 25 Luật Báo chí, nhà báo được hoạt động báo chí tại phiên tòa công khai. Trong đó, hoạt động báo chí là hoạt động sáng tạo tác phẩm báo chí, sản phẩm báo chí, sản phẩm thông tin có tính chất báo chí; cung cấp thông tin và phản hồi cho báo chí; cải chính thông tin trên báo chí; xuất bản, in và phát hành báo in; truyền dẫn báo điện tử và truyền dẫn, phát sóng báo hình.

Như vậy, hoạt động báo chí của nhà báo không thể tách rời hoạt động ghi âm, ghi hình, kể cả tại phiên toà, phiên toà. Tất nhiên, nếu các vụ xét xử liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật quân sự hoặc tội phạm tình dục (như hiếp dâm, cưỡng dâm, v.v.) thì các tình tiết của vụ án không có lợi về mặt giáo dục. cũng như không có lợi cho nạn nhân, việc ghi âm, ghi hình của nhà báo sẽ bị hạn chế. Đây là những vụ án phải xét xử bí mật theo quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân. Chính vì lẽ đó, Luật Báo chí đã rất logic khi quy định quyền tự do tác nghiệp của nhà báo trong các phiên tòa công khai.

Ngoài ra, quy định về xử lý vi phạm nội quy phiên tòa tại Khoản 1 Điều 316 Luật Tố tụng hành chính năm 2015; Khoản 1 Điều 491 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Khoản 1 Điều 467 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 cũng không có quy định nào quy định việc nhà báo ghi âm, ghi hình tại phiên tòa công khai phải được sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa. Bản thân Điều 9 của Luật Báo chí không coi việc nhà báo ghi âm, ghi hình tại các phiên tòa công khai là hành vi bị cấm.

Do đó, Pháp lệnh chỉ nên quy định xử phạt việc nhà báo ghi âm, ghi hình khi chưa được phép tại phiên tòa kín, không kể các phiên tòa, phiên tòa công khai.

Chồng chéo các quy định trừng phạt

Hành vi cản trở hội đồng trọng tài cần được hiểu là hành vi cản trở hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Hành vi này có thể diễn ra tại trụ sở Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra. Hành vi này có thể diễn ra trong phòng xử án hoặc có thể diễn ra bên ngoài phòng xử án (như hành trình) miễn là nhằm mục đích cản trở việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án. cơ quan có thẩm quyền khởi kiện.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng không phải mọi hành vi cản trở hoạt động tố tụng tại Tòa án nhân dân đều là hành vi cản trở hoạt động tố tụng tại Tòa án nhân dân. Chẳng hạn, hành vi không chịu khai báo của bị cáo, nếu hiểu ở góc độ chung thì việc bị cáo không khai báo sẽ cản trở việc xét xử vụ án của hội đồng xét xử. Tuy nhiên, việc từ chối lời khai của bị cáo là hợp pháp vì bị cáo có quyền “không bị buộc phải làm chứng ngược lại mình hoặc không thừa nhận tội”. Như vậy, mặc dù một hành vi có thể cản trở trọng tài nhưng nếu đúng luật thì không thể coi đó là hành vi cản trở.

Ngoài ra, một hành vi vi phạm pháp luật nhưng nếu đã được quy định chế tài trong nghị định xử phạt chuyên ngành thì không thể coi là hành vi cản trở hội đồng trọng tài xử phạt trong pháp lệnh, vì điều đó tạo ra sự chồng chéo. những điểm đan xen và mâu thuẫn trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

Điều 22 của dự thảo pháp lệnh quy định xử phạt hành vi đưa tin sai sự thật, trong đó có quy định riêng áp dụng cho nhà báo. Dù không nói rõ đâu là tin giả nhưng có lẽ theo nhà lập pháp, tin này phải có trên các sản phẩm báo chí như báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử.

Điều này có nghĩa là nếu việc đưa tin sai sự thật được thực hiện trên các nền tảng mạng xã hội như Zalo, Facebook, … thì người đưa tin sai sự thật sẽ bị xử phạt theo Nghị định 15/2020. Lúc này, cơ quan có thẩm quyền sẽ trừng phạt người tung tin thất thiệt với tư cách là một chủ thể bình thường – tức là cá nhân người vi phạm chứ không phải đối tượng đặc biệt là nhà báo.

Sắc lệnh quy định xử phạt các nhà báo vì đưa tin sai sự thật dường như hướng đến một địa chỉ cụ thể là sản phẩm báo chí. Nếu vậy là không thống nhất với quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí nêu tại Nghị định 119/2020 (sửa đổi, bổ sung năm 2022).

Hiện tại, Điều 8 Nghị định 119/2020 đã quy định mức phạt rất cụ thể đối với hành vi đăng, phát thông tin sai sự thật với mức phạt lên đến 100 triệu đồng và áp dụng cho cơ quan báo chí. Điều này là hợp lý, bởi lỗi trong trường hợp này thuộc về cơ quan báo chí (lỗi trong khâu thu thập, đánh giá, biên tập và công bố thông tin) chứ không thuộc về cá nhân nhà báo nào.

Cũng cần lưu ý rằng, trong quá trình tác nghiệp, phóng viên có thể trực tiếp tìm kiếm và đưa thông tin đến cơ quan báo chí, tuy nhiên thông tin này không phải là chính thống mà chỉ ở dạng tiềm năng. Một khi ở dạng tiềm năng, nó không thể được đánh giá là không đúng sự thật. Thông tin tiềm năng này, để trở thành tin tức chính thức, phải trải qua nhiều lần thẩm định, chỉnh sửa và được đăng tải công khai trên các ấn phẩm báo chí.

Khi nó được thể hiện trên một ấn phẩm báo chí mà bị chứng minh là sai sự thật thì cơ quan báo chí sẽ bị xử phạt theo Điều 8 Nghị định 119/2020 như đã nêu ở trên. Do đó, việc quy định của Pháp lệnh xử phạt hành vi “đưa tin sai sự thật” của nhà báo là không thỏa đáng và cũng không thỏa đáng nếu xét về cấu thành vi phạm hành chính.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *