Truyền thuyết về Lục Tổ Huệ Năng

Âm nhạc
Rate this post

Lục Tổ Huệ Năng là một tấm gương sáng cho cả đệ tử xuất gia và tại gia về ý chí tu hành, vượt qua mọi chướng ngại, khó khăn để quyết tâm hướng đến con đường Vô thượng Bồ đề.

Lục Tổ Huệ Năng là ai?

Lục Tổ Huệ Năng là một thiền sư nổi tiếng trong lịch sử Thiền tông Trung Quốc. Ngài là người kế tục Đệ ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, trở thành Tổ thứ 6 của Thiền tông Trung Hoa.

Cuộc đời của Lục Tổ Huệ Năng và câu chuyện về truyền thống y phục và y bát

Lục Tổ Huệ Năng sinh ngày 8 tháng 2 năm Mậu Tuất (638) trong một gia đình nghèo ở Tân Châu, Lãnh Nam, Trung Quốc. Cha bị bệnh và mất sớm khi anh mới ba tuổi. Dù không biết đọc, nhưng với tấm lòng hiếu thảo và bản tính thông minh, hàng ngày anh vào rừng đốn củi mang ra chợ đổi lấy gạo nuôi mẹ.

Một hôm, khi đang mang củi đến nhà một người khách, ông nghe thấy tiếng kinh từ bên trong vang lên. Sau khi hỏi và được thí chủ cho biết đó là Kinh Kim Cương do Đệ Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn khuyên tụng. Nghe xong, anh xin mẹ cho vào Ngũ Tổ để học Đạo và mẹ anh đã đồng ý.

Sau hơn một tháng, Lục Tổ mới đến quận Huỳnh Mai, trước mặt Ngũ Tổ Hoàng Nhân bày tỏ nguyện vọng duy nhất là thành Phật. Tuy nhiên, Lục Tổ Huệ Năng được Ngũ Tổ giao cho việc bếp núc để làm công quả; Tại đây, Lục Tổ tập trung chặt củi, giã gạo. Cối xay lúa to, chày to; người gầy gò ốm yếu, không chịu nổi sức nặng của chày, phải buộc thêm đá vào lưng mới đủ sức giã gạo. Tuy vậy, anh vẫn siêng năng, chăm chỉ, không bao giờ trễ nải, lười biếng.

Trong thời gian dài đeo hòn đá trên lưng để giã gạo, sợi dây cứa vào da khiến da bị trầy xước, bong tróc chảy máu, thậm chí thối rữa và xuất hiện giòi. Tuy nhiên, khi nhìn thấy con giòi rơi xuống đất, Lục Tổ Huệ Năng đã bình tĩnh nhặt nó lên và đặt lại vị trí ban đầu trên da, tiếp tục tập trung vào công việc được giao.

Tranh vẽ Lục Tổ Huệ Năng đeo đá trên lưng giã gạo.

Tranh vẽ Lục Tổ Huệ Năng đeo đá trên lưng giã gạo.

Một hôm, Ngũ Tổ xuống bếp, đi ngang qua chỗ ông đang vác đá đi giã gạo, Ngũ Tổ nói: “Ngươi như vậy vì đạo mà quên chính mình sao? Anh biết em có bản tính thông minh, nhưng sợ người khác hại mình nên không nói chuyện với anh, em có biết không? ”

Anh ấy nói: “Tôi biết rằng.”

Đệ ngũ Tổ Hoằng Nhẫn biết thời cơ hoằng pháp đã đến, liền hạ lệnh cho tất cả đệ tử trình bày một bài kệ kinh nghiệm tu hành. Trong số bảy trăm người, chỉ có Hòa thượng Thần Tú viết một bài kệ:

“Thân là cây bồ đề

Tâm trí như một tấm gương sáng

Luôn siêng năng dọn dẹp

Để bụi trần bám đầy ”.

Ngài Thần Tú viết xong bài kệ, mọi người tấm tắc khen ngợi, cho rằng ngài xứng đáng được y phục và bát bình. Ngài Huệ Năng nghe câu thơ của Ngài Thần Tú và nhờ người viết giúp một bài kệ:

“Bồ đề không phải là cây

Ngay cả gương sáng cũng không đài

Chưa bao giờ có một đối tượng trước đây

Bám trụ vào đâu? ”

Khi ấy, Tổ Hoằng Nhẫn đi ngang qua đọc được mấy bài kệ của Ngài Huệ Năng, nhưng không muốn động tâm nên sai người xóa bài kệ. Mấy hôm sau, trong đêm, Ngũ Tổ xuống bếp, đến chỗ Ngài Huệ Năng giã gạo và hỏi: “Gạo có trắng không?”. Anh trả lời: “Gạo trắng nhưng không sàng”. Ngũ Tổ bèn cầm gậy gõ vào tay cối ba cái rồi trở về. Trong canh ba đêm, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn truyền Pháp và ban y phục và bát cho Huệ Năng.

Kể từ đó, Lục Tổ Huệ Năng trở thành vị tổ thứ sáu của Thiền tông Trung Quốc. Sau đó Ngài đưa Lục Tổ Huệ Năng qua sông trở về phương Nam. Trên thuyền, Ngũ Tổ nói: “Để ta cứu ngươi”. Đáp lời Tổ sư, Lục Tổ nói: “Nhân duyên với Sư, khi ngộ thì tự cứu mình”. Khi lên đến bờ, Ngũ Tổ còn khuyên: “Không những phải cứu mình mà còn phải cứu cả chúng sinh”.

Đệ ngũ Tổ Hoằng Nhẫn đưa Lục Tổ Huệ Năng qua sông.

Đệ ngũ Tổ Hoằng Nhẫn đưa Lục Tổ Huệ Năng qua sông.

Ngũ Tổ dạy về cứu sinh cho Lục Tổ Huệ Năng

Sau khi nhận y phục và bát từ Ngũ Tổ, Ngài Huệ Năng đã vấp phải sự phản ứng gay gắt từ những người ủng hộ Ngài Thần Tú. Họ truy đuổi để lấy lại y và bát vì cho rằng Ngài không xứng đáng được trao y và bát, tiếp nối dòng thiền mà Tổ đã truyền lại.

Trên con đường du ngoạn, anh đã trải qua vô số khó khăn, trở ngại. Điều đặc biệt của Lục Tổ Huệ Năng là ý chí tu hành rất lớn. Từ thuở còn ở Huỳnh Mai; Sau những năm sống ẩn dật, có những lúc rất khó để xin gia nhập nhóm thợ săn. Không chỉ vậy, đến bữa, anh ta chọn rau luộc cho vào nồi thịt, sau đó chỉ ăn rau chứ không ăn thịt. Mặc dù hắn không có chùa chiền, cũng không thuộc dạng xuất gia, nhưng tâm vẫn luôn kiên cố, không một chút lay động.

Noi gương Lục Tổ Huệ Năng – Tăng Ni chùa Ba Vàng nỗ lực tu hành, hoằng dương Phật pháp. sự khai sáng giác ngộ. Khoác lên mình tấm áo giải thoát, dưới sự dìu dắt của Hòa thượng trụ trì Thích Trúc Thái Minh, chư Tăng chùa Ba Vàng luôn ghi nhớ tâm nguyện cao cả là thành Phật, cứu giúp chúng sinh. Các sư tu ngày đêm trong rừng, tập ăn mỗi ngày một bữa (trừ khi lao tâm khổ tứ thì uống thêm bột năng). Đây là pháp môn của Tăng đoàn từ thời Đức Phật còn tại thế; Các nhà sư ngày ăn một bữa, một bát ba áo, thường ở trong rừng, ngủ dưới gốc cây vì rừng là môi trường rất tốt để hành giả tu tập.

Các nhà sư thực hành Phật pháp không ngừng;  chiến đấu với bên trong và bên ngoài khắc nghiệt bất kể ngày hay đêm

Các nhà sư thực hành Phật pháp không ngừng; chiến đấu với bên trong và bên ngoài khắc nghiệt bất kể ngày hay đêm

Bất kể ngày hay đêm, nắng nóng hay mưa bão, chư Tăng chùa Ba Vàng vẫn nghiêm túc hành trì Phật pháp, nối tiếp mạch Phật pháp do Đức Phật và chư Tổ để lại. Với cái tâm lâu năm, được Phật pháp giác ngộ, những vị sư tu hành trong rừng không chỉ “chiến đấu” với những phiền não, phiền não trong tâm, mà còn phải “chiến đấu” với ngoại cảnh mưa, gió, bão. , rắn và rắn. … quyết tâm tìm cầu Vô thượng Bồ đề, làm lợi lạc chúng sinh.

Bên cạnh đó, Phật tử tu học tại chùa cũng như Phật tử tại gia luôn cố gắng hành trì giới luật theo lời chỉ dạy của Thượng tọa trụ trì Thích Trúc Thái Minh và chư tôn đức Tăng. Giữ năm giới, thực hành ba tâm: Tôn trọng – Vâng lời – Biết ơn; biết bố thí, cúng dường, bảo vệ Tam bảo, … Đây cũng là việc làm thiết thực để hoằng dương Phật pháp, báo đáp tứ trọng ân, góp phần xây dựng đất nước phồn vinh, thế giới an lành. chữa trị.

Các tu sĩ quyết tâm tu tập để vượt qua cám dỗ, dục vọng;  đạt được hạnh phúc và giải thoát

Các tu sĩ quyết tâm tu tập để vượt qua cám dỗ, dục vọng; đạt được hạnh phúc và giải thoát

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *